Biotech-VET- Các kỹ thuật nuôi ngan sinh sản

Ðể đạt được ngan giống có chất lượng cao và tỷ lệ trứng ấp nở tốt, phụ thuộc rất nhiều vào quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng ngan sinh sản:


1. Chọn ngan đẻ

Ngan hậu bị phải được chuyển vào chuồng nuôi đẻ (nếu nuôi tập trung) ít nhất 2 tuần trước khi đẻ, khoảng tuần tuổi 23 - 24. Ở ngan toàn bộ số trứng đẻ ra đều được đưa ấp để nở ra ngan con. Do đó để có tỷ lệ trứng ấp nở tốt, cần lựa chọn được con đực và con mái đạt các tiêu chuẩn sau:

Con trống: Có mào đỏ, dáng hùng dũng, có phản xạ tốt khi được kiểm tra gai giao cấu và gai giao cấu có màu hồng sáng dài 3 - 4 cm. Khối lượng phải đạt 3,4 - 3,5 kg/con với ngan nội và 4 - 4,5 kg/con với ngan Pháp.

Con mái: Có mặt đỏ, thân hình cân đối, vùng bụng mềm, lỗ huyệt ướt, lông bóng sáng, vùng xương chậu mở rộng. Khối lượng cơ thể con mái phải đạt 2,1 - 2,2 kg/con với ngan nội và 2,2 - 2,4 kg/con với ngan Pháp.

Ngan 2 chu kỳ đẻ là từ tuần thứ 26 trở đi, thời gian đẻ kéo dài 24 - 28 tuần. Sau đó, chúng nghỉ đẻ thay lông giữa 2 chu kỳ là 10 -12 tuần. Tiếp đến từ tuần thứ 64 - 86 ngan sẽ tiếp tục chu kỳ để thứ hai kéo dài 22 - 24 tuần đẻ.

2. Chuẩn bị chuồng nuôi

Chuồng nuôi: Ðảm bảo tránh gió lùa, thoáng mát vào mùa hè và ấm trong mùa đông. Nền chuồng nên có độ dốc để tiện vệ sinh và tốt nhất nên có 2 bậc (bậc trên chiếm 1/4 diện tích chuồng để ổ đẻ, bậc dưới nơi ngan ăn và uống nước). Ðảm bảo mật độ 3 - 4 con/m2.

Ổ đẻ: Có kích thước thích hợp là 40 x 40 cm, với tỷ lệ 4 - 5 ngan mái/ổ cho ngan mái vào đẻ. Ổ cần có đệm lót dày khoảng 5 cm để trứng được sạch.

Sân chơi, mương nước: Tối thiểu diện tích 3 mái/m2 để vận động, tắm và phối giống. Có thể sử dụng hồ ao, hay mương nước nhân tạo và hệ thống máy bơm nước sạch để cung cấp nước cho ngan sinh hoạt.

3. Cho ăn

Máng ăn và máng uống: Sử dụng máng treo thích hợp hơn và tạo điều kiện cho việc đi lại của ngan. Cần có máng uống nhựa hoặc loại 4 lít đảm bảo 25 con/máng để sử dụng khi ngan uống thuốc phòng...

Thức ăn: Ðây là vấn đề quan trọng liên quan đến hiệu quả của chăn nuôi ngan. Chất lượng thức ăn có quan hệ trực tiếp đến việc đẻ trứng và chất lượng trứng. Khác với các gia cầm như gà, vịt, trứng của chúng còn phục vụ mục đích thương phẩm, toàn bộ số trứng đẻ ra đều được đưa ấp để nở ra ngan con. Giá trị kinh tế là số ngan con nở/mái.

Dinh dưỡng của thức ăn và nhu cầu cho ăn đối với ngan sinh sản cần đảm bảo: trong 1 kg thức ăn có 2.850 Kcal và protein thô 17,5 - 18,5%. Ðịnh lượng thức ăn (g/con/ngày) được đảm bảo: Ðối với ngan mái: 160 - 170 g/con; Ðối với ngan trống: 190 - 200 g/con.

4. Chăm sóc, quản lý

- Trong quá trình chăm sóc, cần tránh các yếu tố dễ gây stress cho đàn ngan sinh sản như: Thay đổi thức ăn đột ngột, tiếng ồn, người lạ, chuyển địa điểm…

- Hàng ngày quan sát tình hình sức khỏe đàn ngan, phát hiện sớm những ngan yếu, loại khỏi đàn những ngan ốm, đồng thời kiểm tra tình hình ngan ăn uống.

- Kiểm tra khối lượng ngan trong quá trình đẻ trứng theo dõi diễn biến đẻ trứng, ghi chép số ngan loại thải số trứng đẻ hàng ngày, tỷ lệ phối và tỷ lệ nở.

- Vệ sinh thay độn chuồng hàng ngày, tránh nấm mốc, đảm bảo chuồng khô và sạch.

- Bổ sung ánh sáng 12 - 14 giờ/ngày căn cứ vào độ dài ánh sáng tự nhiên.

- Tránh hiện tượng ngan béo dẫn đến đẻ kém.

- Tiến hành tiêm phòng vaccine để phòng bệnh định kỳ (tụ huyết trùng, Salmonella…).

5. Nhặt và bảo quản trứng giống

Trứng thu lượm ngay sau khi ngan đẻ. Người nuôi nên tập thói quen cho ngan đẻ trong ổ ngay từ lúc bắt đầu đẻ trứng.

Trứng được xếp vào khay và loại các trứng đẻ bị vỡ hay bị bẩn, không đưa ấp. Nếu nhặt trứng phát hiện thấy số trứng ít hơn ngày hôm trước 10% trở lên thì phải kiểm tra lại khâu chăm sóc, nuôi dưỡng đàn ngan sinh sản để có các biện pháp hỗ trợ kịp thời.

Đăng nhận xét